Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Bằng Việt, người viết từ chính trái tim mình

Thiên Sơn
Thứ sáu ngày 30 tháng 1 năm 2015 5:15 AM


Một vẻ sâu trầm. Giản dị. Làm lãnh đạo văn nghệ, bận rộn với công việc thường xuyên, mà trong góc khuất của tâm hồn có chút gì thanh vắng, quạnh quẽ. Lý trí tỉnh táo, nhưng lại có lúc chìm trong thăm thẳm buồn, có lúc như tuyệt vọng. Bằng Việt là vậy, đa diện, đa tài, đa đoan. Đấy là một nhà thơ để lại những dấu ấn riêng trong thế hệ mình bởi một thứ thơ sang trọng, hài hòa giữa lý trí và cảm nhận.

Bằng Việt sinh năm 1941 ở Huế nhưng quê gốc anh ở Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội. Tuổi thơ anh có những năm sống cùng bà nội trong khi bố mẹ anh lên chiến khu tham gia kháng chiến.

Lớn lên khi miền Bắc đã được giải phóng, Bằng Việt được cử sang Liên Xô học luật. Sau khi về nước anh làm việc tại viện Luật học thuộc Ủy Ban khoa học Xã hội Việt Nam.

Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt khi mới 22 tuổi là Bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ trong trẻo viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Sau khi xuất bản, tác phẩm này đã được bạn đọc đón nhận, làm nên tên tuổi Bằng Việt như một trong những nhà thơ hồn hậu, chân thành và da diết.

Cũng từ thành công này, Bằng Việt bén duyên với làng Văn nghệ và chuyển dần sang làm một nhà thơ chuyên nghiệp. Anh tâm sự: “Mình không được đào tạo văn học ngày nào, xoay ra làm thơ, vì yêu thích. Mình tự sáng tác gửi in báo, sau đó bên Hội Nhà văn, các ông Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên quí mình, mời đến chơi. Họ hỏi, nếu Hội Nhà văn xin mình đi thực tế chiến trường, có đi không? Mình đồng ý liền...” Năm 1970 Bằng Việt thực hiện chuyến đi thực tế chiến trường Bình Trị Thiên với tư cách phóng viên, rồi chuyển sang làm bảo tàng truyền thống cho Binh đoàn 559.

Năm 1983, anh được cử làm tổng thư ký Hội văn học nghệ thuật Hà Nội. Từ đó, Bằng Việt trở thành một trong những người lãnh đạo văn học nghệ thuật kỳ cựu. Cũng có thời kỳ anh làm phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội. Đường quan lộ của anh có vẻ thông suốt. Dù vậy, dường như Bằng Việt không nệ vào quyền lực. Con đường vào văn chương của anh tự nhiên như một ngã rẽ của định mệnh. Trước sau, anh vẫn là một thi sĩ, là người viết từ chính trái tim mình.

*

Cũng như nhiều nhà thơ khác xuất hiện cùng thời, Bằng Việt có hàng chục bài thơ về chiến tranh, về lòng yêu nước, về những biến động của thời cuộc.

Nếu như mỗi nhà thơ có một miền đất riêng cho sáng tác của mình, thì với Bằng Việt, mảnh đất khởi nguồn cho cảm hứng thơ anh là Hà Nội. Những câu thơ của Bằng Việt viết về Hà Nội qua chiến tranh máu lửa xứng đáng xếp vào những câu thơ hào hùng, sinh động với những hình tượng thơ đẹp đẽ bậc nhất trong thơ Việt Nam về đề tài này:

Sông Hồng ơi! Dông bão chẳng thay màu

Rùa thần thoại vẫn nhô lưng đội tháp

Chùa Một Cột đổ trên đầu giặc Pháp

Lại nở xòe trọn vẹn đóa hoa sen ...

(Trở lại trái tim mình)

Dù vậy, nhìn một cách tổng quát các sáng tác của anh, có thể thấy thế mạnh của Bằng Việt không phải là những bài thơ về chiến tranh hay thế cuộc. Anh không có xu hướng vươn mạnh ra những đề tài về cái chung rộng lớn. Ngay khi viết về Hà Nội, bên cạnh những hình ảnh hào hùng, những ngôn từ tụng ca vẻ huyền diệu của một xứ sở, anh vẫn luôn có cái nhìn riêng, thể hiện những rung động riêng tư nhất, gắn với những kỷ niệm của đời mình, với những niềm vui và khát vọng tuổi trẻ:

Tôi trở lại những lối mòn tình tự

Cánh bướm màu hạnh phúc cứ bay đôi

Tiếng ve ran những điệp khúc mùa vui ...

(Trở lại Trái tim mình)

Anh không nhấn vào hình ảnh Hà Nội trong máu lửa mà thường tìm ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, mộng mơ. Và hình ảnh người con gái Hà Nội trong thơ anh trở đi trở lại nhiều lần như một biểu tượng về vẻ đẹp dung dị, tươi tắn, thủy chung:

Thành phố trong mưa. Hoa rắc trên đầu:

Hoa mưa nở từng bông trên mái tóc

Em tươi tắn như mùa xuân thứ nhất

Nhưng thủy chung như một sắc mai già

(Tình yêu và báo động)

Chính vì cách khai thác đề tài đó mà thơ Bằng Việt khi viết về cái chung, cái lớn lao vẫn không mòn sáo và người đọc nhìn thấy sau mỗi bài thơ ấy là một nỗi lòng, một kỷ niệm riêng tư, một ấn tượng mới mẻ, một vẻ đẹp khó phai mờ. Mảng thơ về chiến tranh, về thế sự của anh còn được bạn đọc nhớ đến khi lịch sử đã có nhiều đổi thay, chính là vì sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng, là ở sự độc đáo trong hình tượng thơ và đôi khi là ở sự lóe sáng bất ngờ của tứ thơ.

*

Phần ấn tượng nhất của thơ Bằng Việt chính là khi anh đi sâu vào những ngẫm suy về kiếp người, về tình yêu và hành phúc lứa đôi. Thế giới thơ anh là thế giới của nỗi lòng, của mộng tưởng và hoài tiếc xen với nỗi ngậm ngùi. Đó là điều làm nên phẩm chất thi nhân và tài năng của anh.

Anh có những hình tượng thơ độc đáo, những câu thơ sang trọng như chắt ra từ những nỗi lòng tinh khiết:

Giọt nước soi trên tay không cùng màu sóng bể

“Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa”.

(Nghĩ lại về Pautopxky)

Những năm 70 đến những năm 90 của thế kỷ trước, thơ Bằng Việt vào sổ tay của lớp lớp học sinh, sinh viên. Rất nhiều người đã từng say mê những bài thơ tình bình dị, tinh tế và se thắt buồn của anh.

Nét nổi bật tạo nên phong cách Bằng Việt là ở giọng thơ thủ thỉ, tâm tình. Ngôn từ điềm đạm. Cấu tứ mạch lạc. Đó là một thứ thơ giàu tính nhạc. Và đáng nói nhất là hệ thống thi ảnh đặc sắc.

Những vẻ đẹp ấy trong thơ Bằng Việt tự nhiên như ánh sáng của một tài năng bẩm sinh, lóng lánh trong ngòi bút của anh từ khi còn rất trẻ:

“Thành phố tuổi hoa niên. Thành phố ấy là em.

Em – với màu áo hoa mơ, chân trần trên cỏ ướt,

Đứng thảng thốt reo lên bên bờ sen ngập nước:

“ Trời ơi ! Sen sớm quá chừng thơm!”

(Trò chuyện với thành phố của đời mình)

Và đây nữa, vẫn là một ký ức về người bạn gái thuở thanh xuân:

“Đấy là chiều mùa đông. Bom chưa rơi xuống phố,

Chỉ thấy hạt cây cơm nguội rơi đầy...

Em mặc áo bông chần, chưa nhuộm màu cỏ úa

Mắt rạng nguyên màu trăng mới thơ ngây!”

(Giao hưởng số chín)

Tôi nghĩ, Bằng Việt là một trong số ít nhà thơ trong thế hệ anh sớm biết tạo dựng cho mình hệ thống hình ảnh riêng, đầy mộng mơ, quyến rũ gợi những cảm xúc tinh khiết. Cũng có lúc, ngòi bút anh đột khởi tạo nên những ấn tượng khác thường, rực rỡ:

“Một ánh vui táo tợn của mùa hè

Khi những vệt ong hôn vào nhụy hoa cháy bừng

như vệt lửa”

(Thơ tình ngày động biển)

Khi tài năng đã chín, thơ Bằng Việt dần trở nên tinh vi. Vẫn là những hình ảnh ấn tượng về mặt thị giác, nhưng hơn thế, qua đó nhà thơ đã biểu đạt những rung động tinh tế của tâm hồn:

“Chút xôn xao trong hàng cây nắng nhỏ,

Giọt nước tròn rung rinh trong lá sen

Cả gợn sóng mơ hồ trong ánh mắt riêng em”

(Thơ tình ngày động biển)

Cùng với thời gian, những xao xuyến, ban sơ buổi ban đầu dần qua, thơ Bằng Việt ngày càng thêm nặng ưu tư. Anh thường có xu hướng ngẫm ngợi về sự đổi thay, còn mất trong cuộc đời, trong tình yêu, tình bạn:

Giọt nước mắt khác xưa giữa tình yêu, tình bạn,

Những kỷ niệm nơi này xáo trộn với nơi kia ...

(Thơ tình ngày động biển)

Có lúc anh rút ra một đúc kết đầy nhân ái, một thổ lộ về thái độ sống, sự ứng xử giữa con người trong tình yêu:

Chỉ còn lại cuối cùng những cảm thông da diết

Của tất cả những gì vừa có lại vừa không !...

(Thơ tình ngày động biển)

Thơ Bằng Việt nhiều khi như một khúc nhạc trầm gợi ngẫm suy về hạnh phúc lứa đôi. Nhiều lần viết về đề tài này và mỗi lần lại có thêm những cảm nhận mới mẻ.

Có lúc là sự thức ngộ về những bí ẩn của hạnh phúc. Biết bao nhiêu người từng sống, từng mơ ước, từng tưởng như có thể đạt đến cái đích cuộc đời. Nhưng không, hóa ra tất cả chỉ như một ảo giác, gần đấy mà xa đấy, hiện hữu đấy mà như trong ảo vọng. Đó là sự thấu triệt lẽ đời, và anh đã viết như một sự sẻ chia, như một lời tâm sự:

Hạnh phúc ta cần, thực cũng giản đơn thôi

Như chỉ ở trước ta trên một tầm tay với

Ngỡ rảo bước là sớm chiều sẽ tới

Suốt một đời, sao vẫn giục mình đi ?

(Nghĩ lại về Pautopxky)

Không chỉ bí ẩn, giục giã suốt một đời người, hạnh phúc đẹp và lớn lao vô ngần nhưng cũng hết sức mong manh:

Và hạnh phúc vỡ ra như một nốt đàn căng,

Nốt cao quá trong đời xao động quá,

Hạnh phúc cực hơn mọi điều đã tả

Lại ngọt ngào, kỳ lạ, lớn lao hơn!

(Nghĩ lại về Pautopxky)

Không phải tự nhiên mà nhiều thế hệ thanh niên, sinh viên, bao nhiêu người trẻ tuổi đã thuộc lòng những câu thơ này của Bằng Việt. Cách suy tư ấy của anh đã chạm đến trái tim, đến những băn khoăn, run rẩy của những phận người trên con đường tìm kiếm hạnh phúc của đời mình.

Sau này, khi đã đứng tuổi, khi những mơ mộng, những hoài nhớ mênh mông dần tắt, thì nỗi hoài vọng, nuối tiếc tuổi trẻ và những mộng tưởng một thời lại trào lên. Đấy là lúc Bằng Việt viết nên những câu thơ đẫm buồn, xa xót mà thăm thẳm:

Yên tĩnh thế, khiến lòng run rẩy mãi

Trưa lan xa, bóng nắng đẫm vui buồn

Trưa đang đứng, còn đời mình đang chín

Giọt nắng vàng như mật sáng rưng rưng ...

(Ngày đã đứng trưa)

Lúc đầu chỉ là một sự thức nhận ngậm ngùi, nhưng liền đó là những câu hỏi tha thiết và đau đớn:

Đã đứng rồi ư ? Sao ngày ngắn vậy

Nghĩ chưa xong, thời khắc điểm xong rồi!

Đã chín rồi ư ? Sao đời ngắn vậy

Quay lại nhìn, bao việc vẫn buông xuôi!

(Ngày đã đứng trưa)

Sự hoài tiếc tháng năm, hoài tiếc cuộc đời dường như là một cảm xúc phổ biến, vẫn thường được nói đến trong thơ ca. Nhưng đọc những câu thơ này của Bằng Việt ta vẫn có một cảm giác buốt nhói. Đó là những lời bột ra từ tâm não, từ tình yêu đến quặn lòng với chính cuộc đời này của anh. Mới hay, thơ, trước hết là nỗi lòng. Khi thơ khởi phát từ lòng chân thành thì mới thực sự có thể rung cảm được người đọc.

Có một điều đáng nói là với Bằng Việt, nỗi nhớ tiếc cuộc đời, niềm khao khát sống trở thành một cảm giác thường trực và lớn dần lên theo năm tháng. Không, con người không thể chống lại những quy luật hà khắc của thời gian. Cho nên trong thơ anh, ta nghe những lời than trách cho kiếp phận và những nghịch lý đời người:

Nhanh quá thế, mà cũng buồn quá thế,

Chớp mắt xong, là đã một đời người !

(Tự sự)

Đó là nỗi buồn của tình yêu đời. Nỗi buồn làm cho người ta khao khát sống hơn, làm cho người ta có trách nhiệm hơn với chính mình và với những người xung quanh.

*

Những năm gần đây Bằng Việt có dịp suy nghĩ lại nhiều điều. Khi cuộc sống chuyển sang cơ chế thị trường, khi sự hội nhập toàn cầu đã tạo nên nhiều biến chuyển, đảo lộn nhiêu giá trị, thơ Bằng Việt cũng có những tìm tòi mới.

Ngoài những bài thơ, mà phần lớn là những bài thơ buồn nói lên nghịch lý, những đổi thay của thời thế, có lúc anh chuyển sang làm những bài thơ gần với thơ thiền, có xu hướng thoát tục để tìm về bản thể và sự thanh tĩnh tuyệt đối:

Cỏ hữu hạn, xanh veo thành bất tử

Lòng hoàn nguyên rửa sạch với thinh không!

(Vườn Nhật Bản)

Cũng có lúc anh tìm về với tâm sự của cha ông thuở trước, rồi suy ngẫm về con người trong tiến trình giằng giặc và thăng trầm của lịch sử:

Ai biết nỗi lo thời nào cao hơn,

Ai biết cái nghĩ thời nào cạn hơn ?

Ai biết con người đã từng thành khổng lồ

Lại có lúc hóa thành sâu kiến ?

Nhưng thôi ! Tiếng gà canh năm vẫn gáy

Nhưng thôi ! Thời đại vẫn đang rung chuyển

Mưa thu qua, mưa xuân sắp đến rồi !.

(Đọc lại thơ thời Trần)

Hiện Bằng Việt đang thể nghiệm một thể thơ mới. Anh chia sẻ: “Thể thơ mới mỗi bài gồm 5 câu. Tôi nghiệm thấy, con số 5 trong văn hóa phương Đông là con số rất đặc biệt. Ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tạo nên thế giới. Trong âm nhạc có ngũ cung; ngôi sao có 5 cánh… Vã lại, trong thơ Đông Tây nói chung, có thơ tứ tuyệt (4 câu); Thơ Haiku (3 câu), thất ngôn bát cú (8 câu), thể thơ 5 câu không có sự trùng lặp về thể loại. Có thể sẽ không có một quy định cụ thể về niêm luật, nhưng thơ phải có tính nhạc có cấu trúc nội tại tạo thành một chỉnh thể thống nhất”.

Chúc mừng anh và mong anh tiếp tục có thêm những thành công. Ở tuổi ngoài 70, có lúc tự nghĩ mình là “người của thế kỷ khác”, đã từng lo đến cái lo tụt hậu trước những biến động nhanh chóng khó lường của thời đại, mà anh vẫn còn có khát vọng sáng tạo, đặt ra những vấn đề mới về nội dung và nghệ thuật cho thơ, thực sự đó là điều đáng cảm phục.

Trước khi kết thúc những dòng về Bằng Việt, sẽ là thiếu sót nếu không nói đến mảng thơ dịch của anh. Trong nửa thế kỷ cầm bút, Bằng Việt đã dịch và giới thiệu cho độc giả trong nước nhiều thi sĩ lớn của thế giới như: Bertolt Brecht (Đức), Paul Eluard (Pháp), Evgheni Evtushenko (Nga), Nazim Hikmet (Thổ Nhĩ Kỳ), Federico Garcia Lorca (Tây Ban Nha), Yannis Ritsos (Hy Lạp), Pablo Neruda (Chile)... Năm 2005, tuyển thơ dịch của anh mang tên Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX, gồm 260 bài của 117 tác giả, ở 35 quốc gia trên thế giới được ra mắt, trở thành một công trình dịch thuật tầm vóc và có giá trị lâu bền.

Suốt một cuộc đời lao động nghệ thuật không ngừng, Bằng Việt đã tích lũy tri thức Đông Tây, đã chắt lọc những kinh nghiệm quý giá từ chính những thành bại của mình để kiến tạo nên một sự nghiệp phong phú. Không lánh đời, không xa rời với những chuyển động của thời thế, nhưng không để cái thời thượng lấn át cái bản thể, cái chung lấn át cái riêng. Cuối cùng, người ta vẫn thấy ở anh thơ đích thực là tiếng nói khởi phát từ trái tim giàu rung cảm, từ cảm nhận về vẻ đẹp của cuộc đời, từ tình yêu vô tận với con người. Những bài thơ thành công của anh vẫn còn có chỗ đứng danh dự trong lòng độc giả dù tháng năm vẫn đang vồn vã đi qua.